Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Tinh gọn bộ máy, đổi mới đất nước vì khát vọng xây dựng Việt Nam hùng cường, vươn mình phát triển

Tinh gọn bộ máy, đổi mới đất nước không chỉ là việc sắp xếp tổ chức, cắt giảm đầu mối mà là một cuộc đổi mới toàn diện trong tư duy lãnh đạo, điều hành và phục vụ nhân dân. Một bộ máy tinh gọn là bộ máy biết giảm tầng nấc trung gian, tăng tính minh bạch, tăng hiệu suất và trách nhiệm; là biểu hiện cụ thể của tư tưởng “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh và chuyển đổi số, một bộ máy quản lý linh hoạt, hiệu lực, có khả năng thích ứng nhanh với biến động kinh tế - xã hội chính là nền tảng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng “Hùng cường, thịnh vượng và phát triển bền vững”.
Tại Việt Nam, sau gần bốn thập kỷ đổi mới và hội nhập, bộ máy hành chính tuy đã có những cải cách tích cực nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội chỉ ra rằng: “Tình trạng phân mảnh đơn vị hành chính cấp tỉnh đang khiến việc đầu tư, quy hoạch phát triển, phân bổ nguồn lực và tổ chức bộ máy gặp khó khăn. Nhiều tỉnh có quy mô dân số nhỏ, diện tích hẹp, năng lực tài chính yếu, không đảm bảo tự cân đối ngân sách”. Bên cạnh đó, theo tính toán của Bộ Tài chính, hiện nay tỉ lệ chi thường xuyên chiếm 70% chi ngân sách, một tỷ lệ cao và chưa thực sự bền vững. Đất nước muốn phát triển, chi đầu tư phát triển phải lớn, phải nhiều và phải cao hơn chi thường xuyên.
Trong bối cảnh đó, ngày 12/6/2025, Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 9 đã chính thức thông qua Nghị quyết sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính từ 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xuống còn 34 đơn vị (gồm 6 thành phố và 28 tỉnh). Đây là một quyết định có tính lịch sử thể hiện tư duy đổi mới mạnh mẽ, phản ánh tầm nhìn chiến lược trong công tác tổ chức bộ máy nhà nước, hướng tới mục tiêu hiện đại hóa nền hành chính, xây dựng nhà nước tinh gọn, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả. Quyết sách này không chỉ đơn giản là sự điều chỉnh về mặt địa giới hành chính mà là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, bài bản và nghiêm túc từ phía Chính phủ, Quốc hội cùng các cơ quan chức năng để đi đến một “bước ngoặt” lớn trong tư duy quản trị quốc gia, nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển năng động và bền vững hơn trong giai đoạn tới.
Tinh gọn bộ máy, đổi mới đất nước là yêu cầu tất yếu, khách quan
Từ thực tiễn quản lý quốc gia cho thấy sau nhiều lần chia tách đơn vị hành chính, tính đến năm 2024, cả nước có 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - một con số tưởng chừng hợp lý nhưng trong thực tế đã và đang bộc lộ nhiều bất cập, không tương xứng với yêu cầu phát triển hiện đại và hội nhập sâu rộng. Trước tiên, sự phân tán địa giới hành chính dẫn đến tình trạng cồng kềnh trong bộ máy, chồng chéo về thẩm quyền, chức năng giữa các cấp. Theo thống kê, trong số 63 tỉnh thành, có đến 20 đơn vị có quy mô dân số dưới 01 triệu người, diện tích nhỏ, năng lực tài chính yếu, không tự cân đối được ngân sách. Tính đến hết năm 2024, chỉ có 17/63 địa phương tự cân đối thu - chi và điều tiết ngân sách về Trung ương (Nghị quyết số 105/2023/QH15 về phân bổ ngân sách Trung ương do Quốc hội ban hành năm 2024), một số tỉnh trong nhiều năm liên tục phụ thuộc vào ngân sách từ Trung ương, do đó không hình thành được các cực tăng trưởng độc lập hay động lực kinh tế vùng.
Ảnh: dantri.com.vn
Ảnh: dantri.com.vn

Bên cạnh đó, một bộ máy hành chính trải rộng dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm tăng chi phí vận hành, việc chi thường xuyên của một số địa phương còn rất cao trong khi chi cho đầu tư phát triển rất thấp cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu chi tiêu công. Không chỉ vậy, thực tế còn ghi nhận tình trạng nhiều địa phương có vị trí địa lý gần nhau, cùng chung văn hóa, lịch sử, điều kiện tự nhiên nhưng lại bị chia tách hành chính, dẫn tới sự thiếu liên kết vùng, trùng lặp, thiếu sự phối hợp trong quy hoạch hạ tầng, giao thông. phát triển kinh tế và thu hút đầu tư. Đây là một thực trạng kéo dài tạo ra những “vùng trũng” trong nội bộ quốc gia và kìm hãm sự phát triển bền vững trên phạm vi toàn lãnh thổ (Ví dụ điển hình như: TP. Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa, Vũng Tàu). Đây đều là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có mức độ đô thị hóa và công nghiệp hóa cao nhất cả nước. Tuy nhiên, ranh giới hành chính khiến nhiều dự án giao thông liên vùng (vành đai 3, vành đai 4, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu,…) triển khai chậm, mỗi địa phương “quy hoạch một kiểu”. Hệ quả là tắc nghẽn giao thông, chi phí logistics cao, phân bổ lao động, dân cư mất cân đối.
Việc sáp nhập địa giới hành chính không chỉ nhằm tinh giản bộ máy mà mục tiêu xa hơn là tạo lập những đơn vị hành chính có quy mô đủ lớn, nguồn lực đủ mạnh, năng lực tự chủ đủ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển trong thời đại mới. Quyết sách sáp nhập giúp chuyển đổi sang mô hình “liên kết để phát triển” đúng như tinh thần của Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Đồng thời, sáp nhập đơn vị hành chính là tiền đề củng cố thể chế quản trị nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đúng như định hướng phục vụ Nhân dân, phát triển đất nước của Nghị quyết số 18-NQ/TW (2017) gắn với thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Sự thay đổi này thúc đẩy việc tổ chức lại bộ máy các sở, ban, ngành theo hướng chuyên nghiệp hóa, giảm thiểu trung gian, nâng cao chất lượng công vụ; với tầm nhìn chiến lược là cơ sở để xây dựng hành chính hiện đại, số hóa, phù hợp với định hướng chính phủ số, chuyển đổi số quốc gia được xem là bàn đạp vững chắc đưa Việt Nam tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển toàn diện, hội nhập sâu rộng và bền vững trong thế kỷ XXI.
Ngoài ra, một số quốc gia trên thế giới, như: Philippines (2022), Canada (2023), Bỉ (2024), Iceland (2024), Ấn Độ (2025),… đã tiến hành tinh gọn bộ máy và sáp nhập các địa phương, cộng đồng, đô thị nhằm giảm đầu mối hành chính nhỏ lẻ, cải thiện năng lực tổ chức, quản lý; tiết kiệm chi phí đồng thời đảm bảo chất lượng dịch vụ công. Xu thế quốc tế đó cho thấy việc tinh gọn bộ máy không đồng nghĩa với “giảm quyền lực địa phương” hay “xóa bỏ truyền thống, lịch sử” mà là sự thích nghi cần thiết trong bối cảnh quản trị hiện đại. Việt Nam, với tầm nhìn, chủ trương đúng đắn của Đảng, quyết sách mạnh mẽ của Quốc hội, nghiên cứu chuyên sâu của Chính phủ đã và đang đi đúng hướng của quản trị quốc gia thế kỷ XXI, hướng tới một nhà nước thông minh, linh hoạt, thống nhất cao và phát triển hiệu quả, nhanh và bền vững
Ảnh: dantri.com.vn
Ảnh: dantri.com.vn

Tinh gọn bộ máy - “bước đệm” vững chắc đưa đất nước vươn mình
Trong hành trình tiến vào kỷ nguyên phát triển nhanh - bền vững - hiện đại, một bộ máy hành chính cồng kềnh, phân mảnh và kém hiệu quả chính là điểm nghẽn cần được khai thông triệt để, cụ thể:
(1) Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính từ Trung ương đến địa phương không đơn thuần là thay đổi địa danh hành chính mà là một cuộc cải cách cơ bản về cấu trúc không gian quản trị quốc gia, nơi mô hình tổ chức bộ máy được “lập trình lại” cho phù hợp với điều kiện phát triển mới. Thực tế cho thấy, khi các đơn vị hành chính đạt quy mô “tối ưu hóa” thì việc thu hút đầu tư, phát triển đô thị, cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng chuyển đổi số sẽ trở nên dễ dàng hơn, đồng bộ hơn và hiệu quả hơn.
(2) Tổng Bí thư Tô Lâm nhận định: Bộ máy cồng kềnh kìm hãm sự phát triển…, cần gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ (Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, 11/2024). Tinh gọn tất yếu sẽ đi kèm với việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đây là cơ hội lớn để thực hiện giảm biên chế, xóa bỏ chức vụ trung gian không cần thiết, tái cấu trúc tổ chức, nâng cao hiệu suất công vụ. Đồng thời, cũng là thời điểm quan trọng để sàng lọc, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, bảo đảm người thực sự có năng lực, đạo đức và trách nhiệm sẽ được giao trọng trách, còn những trường hợp yếu kém, hình thức, trì trệ sẽ buộc phải chuyển đổi hoặc bị đào thải.
Ảnh: Dantri.com.vn
Ảnh: Dantri.com.vn

(3) Trong nhiều năm qua, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền là bài toán lớn của Việt Nam, khi các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ còn tụt hậu xa so với vùng kinh tế trọng điểm Bắc, Nam, duyên hải miền Trung. Một trong những nguyên nhân là do các địa phương nhỏ lẻ, năng lực điều phối thấp, thiếu khả năng liên kết vùng và bị chia cắt bởi ranh giới hành chính cứng nhắc. Chính vì vậy, việc sáp nhập, hình thành các đơn vị hành chính lớn, liên vùng là một “cú hích thể chế” giúp phá bỏ các “ngăn cách hành chính”, thúc đẩy tích hợp không gian phát triển, hình thành các hành lang kinh tế xuyên tỉnh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân trong tiếp cận dịch vụ công, hạ tầng, thị trường. Điều này sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển công bằng, bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau theo tinh thần của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030.
(4) Tinh gọn bộ máy, sáp nhập địa giới hành chính không chỉ là vấn đề “trong nội bộ hành chính” mà còn là biểu hiện sinh động cho năng lực đổi mới thể chế, điều hành phát triển của một quốc gia đang chuyển mình mạnh mẽ. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt, quốc gia nào xây dựng được bộ máy tinh gọn, linh hoạt, hiệu quả thì quốc gia đó sẽ có lợi thế vượt trội về thu hút đầu tư, thích ứng chuyển đổi số, quản trị rủi ro và phát triển bền vững. Việt Nam đang bước vào thập niên quyết định với khát vọng vươn lên trở thành quốc gia phát triển, sánh vai với các cường quốc năm châu như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Để hiện thực hóa khát vọng đó, không thể tiếp tục vận hành một bộ máy quản trị hành chính cồng kềnh, chậm đổi mới. Quyết sách sáp nhập địa giới hành chính là một “cú hích” mang tính lịch sử nhằm tháo gỡ “điểm nghẽn” thể chế, mở toang cánh cửa bước vào thời kỳ phát triển vươn mình bứt phá. Đây chính là điều kiện cần để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045 theo định hướng tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Định hướng hành động và tuyên truyền
Mọi quyết sách lớn đều cần sự đồng thuận xã hội và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Trong bối cảnh cải cách hành chính theo hướng tinh gọn, sắp xếp, sáp nhập thì công tác tuyên truyền, định hướng nhận thức và hành động có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ góp phần tạo sự thống nhất tư tưởng, củng cố niềm tin vào chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, mà còn là “lá chắn” hiệu quả trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chia rẽ từ các thế lực thù địch, trong đó cần tập trung vào các nội dung sau:
1. Tuyên truyền đúng bản chất, đúng tầm nhìn của chủ trương là yếu tố tiên quyết để hình thành sự đồng thuận xã hội. Bản chất của chủ trương không dừng lại ở việc tổ chức lại địa giới hành chính mà hướng tới một mô hình quản trị hiện đại, tinh gọn, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Tuyên truyền đúng tầm nhìn cũng là cách giải trừ những nỗi lo bị dẫn dắt bởi thông tin sai lệch, khi Nhân dân hiểu bản chất, đúng tầm nhìn của chủ trương thì từ nhận thức sẽ nảy sinh niềm tin và từ niềm tin sẽ hình thành hành động đồng thuận. Ngược lại, nếu không làm rõ bản chất cải cách, nếu để người dân hiểu mơ hồ hoặc bị tác động bởi luận điệu xuyên tạc thì những “ngộ nhận” sẽ vô tình trở thành lực cản, làm chậm tiến trình chuyển đổi. Khi có thể biến hiểu biết thành niềm tin, biến niềm tin thành hành động thì đó chính là chìa khóa để những quyết sách mang tính lịch sử như tinh gọn, sắp xếp bộ máy trở thành hiện thực sống động trong lòng dân tộc.
Ảnh: Tổng Bí thư và các đại biểu tham dự Hội nghị quán triệt Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị ngày 18/5/2025 - Chinhphu.vn
Ảnh: Tổng Bí thư và các đại biểu tham dự Hội nghị quán triệt Nghị quyết 66 và 68 của Bộ Chính trị ngày 18/5/2025 - Chinhphu.vn

2. Trong bất kỳ cuộc cải cách lớn nào, sự chống phá từ các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị là điều không thể tránh khỏi. Trước những luận điệu ấy, sự im lặng là đồng tình, sự chậm trễ là tạo kẽ hở. Phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không chỉ là nhiệm vụ của báo chí, truyền thông mà còn là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là ở cơ sở. Chủ động phản bác nghĩa là không để bị động chạy theo giải thích, mà cần đi trước một bước, tạo dựng “lá chắn thông tin” bằng sự tỉnh táo, bản lĩnh và chủ động. Công tác tuyên truyền phản bác phải mang tính hệ thống, bài bản, đặc biệt chú trọng vào các nội dung: (1)Chỉ rõ bản chất phi lý, phi thực tế và phản dân chủ, phá hoại của các luận điệu xuyên tạc; (2)Cung cấp đầy đủ thông tin chính thống, số liệu minh bạch, cơ sở pháp lý rõ ràng, phản biện ngắn gọn, súc tích, dễ tiếp cận với quần chúng; (3)Đặt vấn đề trong bối cảnh lịch sử và thực tiễn phát triển đất nước để người dân thấy rõ không thể giữ mô hình quản trị lỗi thời cho một quốc gia đang bước vào giai đoạn tăng tốc phát triển.
3. Nhận thức phải chín, tư tưởng phải thông, quyết tâm phải lớn và phương pháp phải đúng” từ đó xây nền móng vững chắc cho quá trình cải cách bộ máy hướng đến một quốc gia phát triển, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Điều này đòi hỏi sự thống nhất trong tư duy, nhận thức, hành động đồng bộ, thống nhất, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cần xác định rõ việc tinh gọn bộ máy chính là tổ chức lại tư duy, phương pháp làm việc, cơ chế vận hành của cả hệ thống chính quyền.
Ảnh: thanhnien.vn
Ảnh: thanhnien.vn

Cần kiên quyết phòng, chống việc lợi dụng chủ trương sắp xếp bộ máy, đội ngũ cán bộ để tiêu cực, tham nhũng kết hợp với tinh thần nêu gương, dấn thân cải cách cần được đặt lên hàng đầu, làm sao phải có đội ngũ cán bộ có giác ngộ, có tâm huyết vì nước, vì dân, vì sự nghiệp của Đảng. Những cán bộ còn nặng tâm lý cục bộ, “địa phương chủ nghĩa” cần tự điều chỉnh; ngược lại, cần trao cơ hội nhiều hơn cho cán bộ trẻ, có tư duy đổi mới, có năng lực vận hành bộ máy trong môi trường rộng hơn, đòi hỏi cao hơn. Cùng với đó, phải đảm bảo nguyên tắc phân quyền rõ ràng, minh bạch, đồng thời kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật và giám sát của nhân dân. Đã đến lúc, khẩu hiệu “hành động quyết liệt” không còn là tuyên ngôn suông mà phải trở thành mệnh lệnh hành động từ trên xuống dưới, từ trong Đảng ra ngoài xã hội, để đưa chủ trương đi vào đời sống, biến cải cách thành động lực phát triển bền vững.
4. Đổi mới từ tư duy đến cấu trúc phát triển thông qua việc xây dựng mô hình chính quyền địa phương “kiểu mới”. Địa phương “kiểu mới” ở đây không chỉ là một đơn vị hành chính lớn hơn về quy mô, mà trước hết phải là một thực thể có tư duy quản trị mới, cách tiếp cận mới và chiến lược phát triển đồng bộ, tích hợp. Những địa phương “kiểu mới” cần hướng đến: (1)Mô hình “tỉnh vùng động lực” đóng vai trò kết nối và lan tỏa tăng trưởng tới các tỉnh lân cận, thông qua xây dựng các vành đai công nghiệp, đô thị, dịch vụ tích hợp; (2)Mô hình đô thị đa cực, trong đó mỗi địa bàn sau sáp nhập trở thành một “cực” có chức năng phát triển riêng biệt nhưng gắn bó chặt chẽ với nhau, tối ưu hóa hiệu quả sử dụng tài nguyên và cơ sở hạ tầng; (3)Mô hình quản trị thông minh, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào điều hành, phục vụ người dân, doanh nghiệp và quản lý công.
Điều đó đòi hỏi các địa phương sau sáp nhập không thể vận hành bộ máy theo lối cũ với sự chồng chéo, cục bộ, phân mảnh mà cần xây dựng mô hình quản lý dựa trên nguyên tắc liên kết vùng, phát triển đồng bộ hạ tầng, quy hoạch một cách khoa học, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện, tích cực liên kết vùng, hình thành các “cực tăng trưởng” mới,… Xây dựng các mô hình địa phương “kiểu mới” cũng đồng nghĩa với “tái định vị bản thân” trong chiến lược phát triển đất nước, không chỉ chờ Trung ương phân bổ nguồn lực mà biết chủ động tạo ra động lực nội tại. Đây là cách tốt nhất để khắc phục “tư duy nhiệm kỳ”, “tâm lý địa phương chủ nghĩa” và hướng tới một Việt Nam thống nhất trong đa dạng, phát triển trên nền tảng của liên kết, tích hợp và bản lĩnh đổi mới.
5. Tạo sự đồng thuận xã hội, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết dân tộc, trong đó cần xác định đồng thuận không phải là sự im lặng mà là kết quả của quá trình trao đổi, lắng nghe ý kiến, đối thoại thẳng thắn, minh bạch thông tin và tạo sự thống nhất từ nhận thức đến hành động giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Đồng thuận xã hội cũng không thể hình thành nếu thiếu sự trân trọng đối với yếu tố văn hóa, lịch sử, bản sắc vùng miền từ đó giúp người dân không cảm thấy bị “xóa bỏ danh tính hành chính” mà được “định vị lại trong một tổng thể phát triển lớn mạnh hơn”, khơi dậy niềm tin rằng mỗi người dân, dù ở tỉnh nhỏ hay thành phố lớn đều đang cùng nhau góp sức cho một Việt Nam vươn mình hùng cường, thịnh vượng. Sự đoàn kết không còn chỉ là lời kêu gọi mà là hành động cụ thể, đồng lòng, chung sức, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
“Biết đồng sức, biết đồng lòng, việc gì khó, làm cũng xong” (Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết Nghị quyết số 66 và 68 của Bộ Chính trị, 18/5/2025), lịch sử dân tộc từng chứng minh, chính tinh thần đại đoàn kết đã giúp Việt Nam vượt qua bao thử thách khắc nghiệt từ kháng chiến cứu nước đến đổi mới đất nước. Hôm nay, khi đất nước bước vào một kỳ cải cách sâu rộng, khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết một lần nữa là “chìa khóa vàng” để mở cánh cửa tương lai. Đoàn kết để đồng thuận, đồng thuận để phát triển và phát triển để khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, vị thế của Việt Nam trên bản đồ thế giới hiện đại.
Ảnh: Baonghean.vn
Ảnh: Baonghean.vn

Quyết sách tinh gọn bộ máy không phải là sự chọn lựa tình thế mà là kết tinh của tư duy chiến lược, tầm nhìn cải cách, đổi mới đất nước vì khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tiến trình xây dựng Việt Nam hùng cường, phát triển. Dẫu con đường cải cách không thể tránh khỏi những “va đập” và thách thức, song lịch sử đã chứng minh: Mỗi lần Đảng ta dám nghĩ - dám làm - dám chịu trách nhiệm, đất nước đều bước lên nấc thang mới của phát triển. Và lần này chắc chắn cũng vậy, lịch sử không chờ đợi ai chần chừ, do dự, thời điểm để hành động là ngay bây giờ. Tinh gọn để mạnh mẽ hơn, sáp nhập để vươn xa hơn, đó không chỉ là một cải cách mà là quyết sách của một dân tộc đang chuyển mình để bước vào kỷ nguyên vươn mình phát triển hùng cường, thịnh vượng. Theo lời kêu gọi của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới - Khát vọng - Hành động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu vào năm 2045”, chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin tưởng vững chắc vào một tương lai tươi sáng của đất nước.
Phạm Anh Tài

Các tin khác

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Công an tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả: