Do
Biên Hòa có vị trí chiến lược quan trọng nên địch đã bố trí nhiều lực lượng,
nhiều tuyến, nhiều tầng để kìm kẹp, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân
Biên Hoà, đánh phá lực lượng cách mạng tại chỗ của ta và bảo vệ hậu phương của
chúng. Từ tháng 5-1965, các đơn vị bộ binh, không quân, hậu cần Mỹ đã có mặt và
triển khai nâng cấp sân bay Biên Hoà thành sân bay chiến lược lớn nhất ở Đông
Nam Á, Tổng kho liên hợp hậu cần được xây dựng ở Long Bình với diện tích trên
40 km2. Biên Hoà trở
thành một đô thị quân sự trung tâm của miền Đông Nam bộ.
Nhà Cố vấn quân sự Mỹ
ở Biên Hòa (số 118, đường Công Lý, nay là đường Võ Thị Sáu)
Trước
tình hình trên, ngày 5-9-1965 Trung ương Cục quyết định thành lập tỉnh Biên Hoà
(U1) gồm có huyện Vĩnh Cửu và thị xã Biên Hoà (đến tháng 10-1967, U1 nhận thêm huyện Trảng Bom). Nhiệm vụ đánh
vào kho tàng, căn cứ quân sự của Mỹ để tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến
tranh của chúng, hỗ trợ các chiến trường, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị
ở đô thị là hết sức quan trọng và cần thiết. Lực lượng vũ trang Biên Hòa - U1 từ
một đại đội đặc công phát triển từng bước lên thành hai tiểu đoàn với nhiều
chốt chặn, liên tục tấn công Tổng kho Long Bình giành thắng lợi lớn, tiêu diệt
một khối lượng bom đạn rất lớn của Mỹ, chi viện kịp thời cho chiến trường miền
Nam, miền Bắc.
Cuối năm 1967, nhằm giáng một đòn quyết định, đánh bại
chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - ngụy, Trung ương Cục quyết định giải thể
khu Đông Nam bộ và Đặc khu Sài Gòn - Gia Định, lập Khu trọng điểm gồm Sài Gòn -
Gia Định và một phần đất của các tỉnh lân cận, chuẩn bị Tổng công kích, tổng
khởi nghĩa Xuân Mậu Thân năm 1968.
Để hình thành năm mũi tấn công từ ngoài vào, kết hợp với mũi bên trong nổi
dậy theo thế “nội công, ngoại kích” vào Sài Gòn, trung tâm đầu não của bè lũ Mỹ
- nguỵ, Trung ương Cục quyết định chia Khu trọng điểm ra thành 6 Phân khu. An
ninh khu Đông Nam bộ cũng được giải thể, cán bộ, chiến sỹ được đưa xuống cơ sở.
Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa - U1, cơ cấu tổ chức, cán bộ, chiến sỹ của Ban An
ninh tỉnh không có gì thay đổi ngoài đồng chí Dũng được Ban An ninh khu tăng
cường về giữ chức Phó ban.
Quân viễn chinh Mỹ đến sân bay Biên Hòa (1968)
Tháng 10/1967, chuẩn bị cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân
năm 1968, đi đôi với bố trí lại lực lượng, củng cố, xây dựng lại tổ chức, dồn
sức cho tuyến trước, lực lượng An ninh Biên Hòa - U1 bố trí lại mạng lưới thông
tin liên lạc, tổ chức vận chuyển vũ khí vào nội đô, đưa cán bộ vào nội đô sống hợp
pháp và hoạt động chuẩn bị làm hạt nhân phát động quần chúng nổi dậy khi chiến
dịch Tổng công kích, tổng khởi nghĩa nổ ra.
Trên tinh thần quyết tâm giành thắng lợi cao nhất, lực lượng An ninh Biên
Hòa - U1 ưu tiên tối đa lực lượng, phương tiện, vũ khí và giành những điều kiện
tốt nhất cho đợt Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân năm 1968. Trên
địa bàn tỉnh, do thị xã Biên Hòa là chiến trường tập trung các cơ quan đầu não,
các kho tàng quân sự, sân bay chiến lược của địch, Trung ương Cục đã tăng cường
cán bộ chỉ huy có năng lực, tăng cường lực lượng chiến đấu tinh nhuệ cho tỉnh
và tập trung chỉ đạo lực lượng tại chỗ tấn công vào các mục tiêu quân sự như
Tổng kho Long Bình, sân bay Biên Hòa, Bộ tư lệnh Sư đoàn dã chiến số 2 của Mỹ,
Bộ tư lệnh Quân đoàn III ngụy, Nha cảnh sát miền Đông … Các cơ sở trong nội đô
Biên Hòa cũng được sinh hoạt, giao nhiệm vụ dẫn đường cho lực lượng của khu,
của miền trinh sát, tiếp cận các mục tiêu quân sự của địch; nổi dậy và phát
động quần chúng nổi dậy lùng diệt ác ôn, giải phóng xã, ấp khi chiến dịch nổ
ra. Đồng thời lực lượng An ninh còn có nhiệm vụ làm tốt công tác trinh sát địa
bàn, thanh lọc số phần tử xấu, vô hiệu hóa bộ máy tề ấp, tề xã để các lực lượng
cách mạng bám trụ địa bàn cũng như đảm bảo an toàn, bí mật cho việc triển khai
lực lượng.
Trong giai đoạn này hàng trăm tên ác ôn khét tiếng đã bị diệt, riêng lực
lượng An ninh diệt 35 tên, trong đó Tổ trinh sát vũ trang mật cánh CZ2 đã diệt
một số tên ác ôn tại Hiệp Hoà, Bửu Hoà như các tên Tám Rỗ, ấp trưởng; tên Tâm,
tình báo nằm vùng tại Hiệp Hòa; tên Rồi, chỉ điểm ở Bửu Hòa; tên Đài, tên Cử ở
Bình Đa; tên Huỳnh Văn Tây, Trưởng ban căn cước Nha Cảnh sát miền Đông; tên
Đặng Công Thành (tức Bương), Đại úy
Cảnh sát Nha Cảnh sát miền Đông... Tổ trinh sát vũ trang lộ đã mưu trí, diệt
tên ác ôn Bảy ốm giữa ban ngày… Hoạt động của lực lượng Trinh sát vũ trang lộ
và mật của lực lượng An ninh khiến kẻ thù khiếp sợ, chùn bước; gỡ thế kìm kẹp
cho quần chúng; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của lực lượng cách mạng.
Tháng 11/1967, nhằm bảo vệ bí mật chiến dịch, ngăn chặn tai mắt của địch,
tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ ta ra, vào hoạt động và vận chuyển vũ khí
vào nội đô chuẩn bị cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa, thúc đẩy phong trào
cách mạng trong nội ô Biên Hòa phát triển, Tỉnh uỷ Biên Hòa - U1 quyết định
trừng trị hai tên phản bội Hà Tư và Mười Lồi. Tổ trinh sát vũ trang mật và tổ
biệt động cánh CZ2 được giao thực hiện nhiệm vụ này.
Hà Tư, tên thật là Võ Hà Tư là Tỉnh uỷ viên dự khuyết, nguyên Bí thư Huyện
ủy huyện Tân Uyên được Tỉnh ủy Biên Hòa điều về giữ chức Bí thư Huyện ủy huyện
Long Thành từ tháng 3/1958. Tháng 10/1959, không chịu được gian khổ của kháng
chiến, Hà Tư đầu hàng địch, công khai dẫn địch bắt cơ sở, phá vỡ nhiều tổ chức
Đảng của hai huyên Tân Uyên, Long Thành. Dưới sự chỉ điểm của Hà Tư, nhiều cơ
sở Đảng của tỉnh Biên Hòa, của huyện Long Thành, Tân Uyên và thị xã Biên Hòa bị
địch đánh tróc khỏi địa bàn. Đường dây giao liên từ tỉnh về huyện, từ huyện lên
tỉnh bị địch phục kích, bịt kín. Liên lạc giữa tỉnh về huyện và giữa huyện lên
tỉnh bị cắt đứt. Nhiều giao liên hy sinh hoặc rơi vào bẫy của địch. Nhiều công
văn, chỉ thị của Đảng cũng rơi vào tay địch. Phong trào cách mạng của tỉnh Biên
Hòa nói chung và của huyện Long Thành, Tân Uyên, thị xã Biên Hòa nói riêng bị
tổn thất nặng nề.
Sau khi chỉ điểm cho địch phá nát cơ sở, tổ chức Đảng của hai huyện Long
Thành, Tân Uyên và Thị uỷ Biên Hòa, Hà Tư làm mật báo viên cho địch. Hàng ngày
trong vỏ bọc người đi bán kem dạo, Hà Tư đến các bến xe, nhà ga và các nút giao
thông để đón lõng cán bộ ta. Nhiềucán bộ cách mạng tiếp tục bị địch bắt dưới sự
chỉ điểm của Hà Tư.
Mười Lồi nguyên là Trưởng ban Quân báo tỉnh Biên Hòa, nắm giữ nhiều đầu mối
liên lạc và biết nhiều cơ sở nội tuyến của ta đang nằm trong lòng địch. Không công khai dẫn địch đi bắt cơ sở, nhưng Mười
Lồi được địch tin dùng, tuyển dụng làm nhân viên Cảnh sát đặc biệt để tận dụng
mối quan hệ giữa Mười Lồi với các cơ sở nội tuyến của ta, đánh sâu, đánh hiểm
vào nội bộ ta.
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy Biên Hòa - U1, Tổ Trinh sát vũ trang mật cánh
CZ2, An ninh Biên Hòa - U1 gồm hai trinh sát Nguyễn Thị T và Võ Văn N đã theo
dõi quy luật hoạt động hàng ngày của Hà Tư và Mười Lồi và diệt hai tên phản bội
Hà Tư, Mười Lồi ngay tại nhà riêng của bọn chúng vào đêm 12/12/1967.
Hai tên phản bội, gây nhiều tổn thất cho cách mạng đã cùng phải đền tội
khiến địch tại nội ô Biên Hòa hoảng loạn, quần chúng và lực lượng cách mạng
phấn khởi, giải tỏa được tâm lý lo lắng bị phát hiện, chỉ điểm của một số cán
bộ khi được phân công vào gây dựng phong trào tại nội đô Biên Hòa, thúc đẩy
phong trào có bước phát triển mới.
Nhằm đạt thắng lợi cao nhất, phục vụ cho quyết tâm chiến lược của Đảng,
ngày 15/12/1967, Thường vụ Trung ương Cục ra Chỉ thị số 32-CT, chỉ rõ nhiệm vụ sắp tới của lực lượng An ninh toàn
miền là: “Phải hướng vào đô thị, thị xã,
thị trấn và các vùng yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang, chính trị và quần
chúng đẩy mạnh trừ gian, diệt ác ôn, đánh rã bộ máy kìm kẹp, hạ uy thế địch,
tạo điều kiện cho phong trào cách mạng của quần chúng nổi dậy, tiến lên tiêu
diệt cơ quan đầu não, các tổ chức công an, tình báo của Mỹ - nguỵ, các đảng
phái phản động, đánh tan các cơ sở phản động của địch một cách triệt để, góp
phần đánh sập nguỵ quyền từ trung ương đến tận cơ sở, giành chính quyền về tay
nhân dân”. Chỉ thị số 32-CT của Thường vụ Trung ương Cục là mệnh lệnh đối
với lực lượng An ninh toàn miền chuẩn bị cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa.
Thực hiện chỉ thị của Thường vụ Trung ương Cục, đến giữa tháng 12/1967,
phương án “An ninh phục vụ cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa” được Ban lãnh
đạo An ninh tỉnh Biên Hòa - U1 hoàn tất. Địa bàn trọng điểm của An ninh tỉnh là
thị xã Biên Hòa, trung tâm quận lỵ Công Thanh (Nay là các xã Bình Hòa, Thạnh Phú, huyện Vĩnh Cửu).
Nhiệm vụ trọng tâm của lực lượng An
ninh Biên Hòa - U1 là trinh sát địa bàn, thanh lọc số phần tử xấu, đảm bảo an
toàn, bí mật cho việc triển khai lực lượng, triển khai chiến dịch đến giờ nổ
súng; đánh chiếm Chi cảnh sát Công Thanh, đánh bứt cầu suối Đỉa, chốt chặn viện
binh địch tại đây; dẫn đường cho lực lượng của Khu, của Miền tiếp cận các mục
tiêu quân sự của địch trong nội ô thị xã Biên Hòa; phối hợp vận động quần chúng
trong nội ô Biên Hòa, công nhân Khu công kỹ nghệ và quần chúng ngoại ô nổi dậy,
chiếm công sở, nhà máy, trụ sở chính quyền địch; lùng diệt ác ôn; giải phóng
xã, ấp; xây dựng chính quyền cách mạng.
Cuối tháng 1/1968, công tác học tập, triển khai Chỉ thị số 32-CT của Thường
vụ Trung ương Cục về nhiệm vụ, phương hướng công tác an ninh trong thời gian
sắp tới cho cán bộ, chiến sỹ và công tác chuyển hướng tổ chức, bố trí lại chiến
trường, hoạch định các phương án chiến đấu của An ninh tỉnh Biên Hòa - U1 đã
hoàn tất. Vũ khí đã được các cơ sở của ta vận chuyển vào trong nội đô. Một loạt
cơ sở của An ninh thị xã Biên Hòa được đưa theo đường công khai vào sống hợp
pháp trong nội đô, sẵn sàng làm hạt nhân vận động quần chúng nổi dậy khi chiến
dịch nổ ra. Cán bộ, chiến sỹ lực lượng An ninh từ tỉnh đến cơ sở được quán
triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng và hạ quyết tâm cố gắng đến cao độ, tập
trung lực lượng, giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn theo
tinh thần chỉ đạo của Đảng.
Đặc biệt, Thường vụ
Tỉnh ủy chỉ đạo Ban an ninh Biên Hòa - U1 và Ban Quân báo Tỉnh đội Biên Hòa U1
nắm tình hình phục vụ cho các đơn vị lực lượng võ trang Sư đoàn 5, Trung đoàn
4, Trung đoàn ĐKB, và đặc công Biên Hòa đi nghiên cứu mục tiêu tấn công, suốt 2
tháng nghiên cứu mục tiêu mà vẫn đảm bảo không lộ bí mật đến phút cuối cùng các
đơn vị tập kết tấn công địch đúng giờ G ngày N đã được đồng chí Lê Đức Anh – Tư
lệnh phó, tham mưu trưởng Miền lúc bấy giờ khen ngợi.
Ngày 30/1/1968 (tức 29 tháng chạp năm Đinh Mùi), không khí chuẩn bị cho
Tổng công kích, tổng khởi nghĩa của quân và dân tỉnh Biên Hòa - U1 vô cùng khẩn
trương. Chiều 30 Tết Mậu Thân (1968), các cơ sở mật hóa trang dưới nhiều hình
thức, vận chuyển những chuyến hàng cuối cùng bên trong có dấu vũ khí, thuốc nổ,
đạn… vào nội đô; nhiều cán bộ, chiến sỹ của ta, hóa trang thành những người đi
làm ăn xa về nhà ăn Tết, tiếp tục theo đường công khai lọt vào nội ô Biên Hòa
và những địa bàn được phân công. Mọi
việc chuẩn bị cho Tổng công kích, tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân tỉnh Biên Hòa - U1 đã hoàn
tất, chỉ còn chờ giờ nổ súng.
Đúng 0 giờ ngày 31/1/1968 (giao thừa Tết Mậu Thân), lệnh Tổng công kích,
tổng khởi nghĩa được phát ra bằng tín hiệu sau lời chúc Tết của Bác trên sóng
phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam. Khi pháo binh của ta từ trận địa pháo
Hiếu Liêm cấp tập dội đạn xuống sân bay Biên Hòa, cũng là lúc cán bộ, chiến sỹ
An ninh Biên Hòa - U1 phối hợp với chủ lực của Khu, của Miền và lực lượng vũ
trang địa phương tấn công địch trên toàn tuyến. Ngay từ giờ đầu của chiến dịch,
bộ đội chủ lực đã chiếm và làm chủ một phần sân bay Biên Hòa, một phần trung
tâm chỉ huy của Bộ chỉ huy Quân đoàn 3 ngụy, chiếm sân bay dã chiến và phá huỷ
nhiều máy bay lên thẳng của địch tại Bộ chỉ huy Sư đoàn dã chiến số 2 Mỹ, đốt
cháy và phá huỷ hàng ngàn tấn bom, đạn của địch tại Tổng kho Long Bình… Lực
lượng An ninh đã sát cánh với bộ đội địa phương tấn công Chi khu Công Thanh,
đột nhập Ty cảnh sát diệt 17 tên địch, trong đó có 3 tên cấp úy. Tại khu Công
kỹ nghệ, lực lượng An ninh mật phối hợp với Ban Công vận phát động quần chúng
nổi dậy, làm tê liệt ý chí kháng cự của địch tại cơ sở.
Sân bay Biên Hòa bị tiến công bóc cháy năm 1968
Tại cơ sở, khi lệnh Tổng công kích, tổng khởi nghĩa phát ra, lực lượng An
ninh xã, ấp trên khắp địa bàn Biên Hòa - U1 đã phối hợp với lực lượng du kích
đồng loạt tấn công địch trên toàn tuyến và tổ chức rải truyền đơn, treo cờ,
tuyên truyền vận động quần chúng nổi dậy tấn công địch. An ninh các xã, ấp đã
diệt nhiều tên tề, điệp ác ôn. Tuy vậy, ta chỉ diệt được bọn công khai, hơn nữa
việc dứt điểm các mục tiêu quân sự lớn của bộ đội chủ lực không thành, yếu tố
bí mật không còn, công tác phát động quần chúng nổi dậy chiếm trụ sở làm việc,
phá rã hệ thống chính quyền địch ở xã, ấp, lùng diệt ác ôn, bóc gỡ cơ sở, màng
lưới ngầm của địch… không hoàn thành chỉ tiêu đề ra.
Ngày 1/2/1968, địch hoàn hồn, tổ chức phòng thủ, bịt kín bên trong và bung
quân ra bên ngoài truy kích lại ta. Lực lượng An ninh được lệnh lui quân về xã,
ấp hỗ trợ cơ sở diệt ác, phá kìm. Sau khi lực lượng quân sự rút ra ngoài, lực
lượng An ninh được lệnh bám địa bàn Chi khu Công Thanh làm nhiệm vụ diệt ác,
phá kìm, giành quyền làm chủ ở xã, ấp. Phối hợp với du kích các xã, lực lượng
An ninh đã trấn áp bằng các hình thức 30 tên tề, điệp và các phần tử phức tạp
tại các xã Bình Long, Bình Ý, Tân Triều…
Ngày 3/2/1968, tiếng súng Tổng công kích, tổng khởi nghĩa của quân và dân
ta thưa dần. Tối ngày 4/2/1968, Thường vụ Trung ương Cục và Quân uỷ Miền họp,
nhận định: “Cùng với thắng lợi chung của
toàn Miền, cuộc tấn công ở Khu trọng điểm vừa qua đã giành được những thắng lợi
to lớn, các lực lượng vũ trang của ta đã công kích đúng thời gian chung và
trúng các mục tiêu chủ yếu, đã chiếm và giữ được trong một thời gian nhất định,
đã gây cho địch những tổn thất nhất định về sinh lực và cơ sở vật chất, làm tê
liệt và rối loạn ngay từ đầu hệ thống hành chính đầu sỏ và hệ thống chỉ huy của nguỵ, đặc biệt đã làm
cho tinh thần bè lũ Mỹ - nguỵ (kể cả bọn đầu sỏ) hoang mang dao động đến cực độ…
Thắng lợi bước đầu nói trên có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó đặt cơ sở vững
chắc để liên tục tấn công địch và giành thắng lợi cuối cùng”. Từ nhận định trên, Thường vụ Trung ương Cục và Quân uỷ Miền đề ra nhiệm vụ
cụ thể trong thời gian tới cho Khu trọng điểm là giữ vững địa bàn đã chiếm
được; xây dựng thêm các lực lượng tự vệ, biệt động, đặc công, tiếp tục tấn công
địch. Các lực lượng vành đai gần phải ép sát nội thành, mỗi hướng từ 2 đến 3
Tiểu đoàn, chiếm giữ địa bàn, đánh tại chỗ, hỗ trợ, thọc sâu vào bên trong và
sẵn sàng đánh Mỹ phản kích để thực hiện nhiệm vụ chung là “Kiên quyết giữ vững thắng lợi vừa giành được, phát huy thắng lợi từng
giờ, từng phút, phát triển mạnh mẽ cuộc chiến đấu trong Sài Gòn và chung quanh
Sài Gòn hình thành thế bao vây nhiều tầng, kiên quyết tấn công địch, kết hợp
đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn, kết hợp đánh thường xuyên liên tục với từng đợt
mạnh tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực, phương tiện chiến tranh và cơ sở vật
chất của Mỹ - nguỵ kết hợp với chiếm khu vực và mục tiêu quan trọng, vừa đánh
vừa phát động quần chúng, xây dựng phát triển lực lượng ta, tạo ra những điều
kiện tốt hơn để tiến lên dứt điểm giành thắng lợi cuối cùng”
Ngày 22/2/1968, Tổng công kích,
tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam kết thúc. Tại mặt
trận thị xã Biên Hòa, các lực lượng cách mạng loại khỏi vòng chiến đấu hơn
5.000 tên địch, nhiều viên chức chính quyền Ngụy Sài Gòn và ngụy quân chạy trốn
đến hơn hai tuần sau mới trở về nhiệm sở; 120 máy bay các loại bị phá hủy, 127
dãy bom đạn nổ tung trong các kho ở Long Bình… Tuy không đạt được thắng lợi
trọn vẹn như kế hoạch đề ra, song hơn một tháng nổi dậy, quân và dân miền Nam
đã liên tục tấn công và“Đã tiêu hao, tiêu
diệt và làm tan rã 1/3 quân nguỵ, làm cho quân nguỵ gặp khó khăn rất nghiêm
trọng về bổ sung quân số, suy sụp nặng về tinh thần, đang trên đà suy sụp và
tan rã từng mảng; tiêu diệt và tiêu hao 1/5 lực lượng chiến đấu, 1/3 số máy
bay, 1/3 số xe cơ giới và một bộ phận quan trọng cơ sở, vật chất khác của quân
Mỹ, làm cho sức chiến đấu và tinh thần của quân Mỹ bị giảm sút rõ rệt; đã tiêu
diệt, làm tê liệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng nguỵ quyền, đẩy nguỵ
quyền đến chỗ rệu rã nghiêm trọng; tiêu diệt, bức hàng, bức rút 1/5 đồn bót
địch… giải phóng trên một triệu 50 vạn dân”.
Tuy nhiên, trong trận chiến này, lực lượng An ninh đã huy động toàn bộ lực
lượng tham gia Tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Trong nội ô, hầu hết cơ sở bí
mật của ngành được đưa ra hoạt động công khai, dẫn đến sớm bộc lộ lực lượng và
khi bị địch phản kích thì bị thiệt hại nặng nề. Trên địa bàn tỉnh Biên Hòa - U1,
đặc biệt là trong nội ô thị xã Biên Hòa, nhiều cơ sở bị địch đánh tróc khỏi địa
bàn. Lực lượng Trinh sát vũ trang và lực lượng Trinh sát bảo vệ chính trị bị
tổn thất nặng nề. Cán bộ, chiến sỹ có năng lực được đưa ra tuyến trước lần lượt
hy sinh. Cán bộ, chiến sỹ được bổ sung chưa quen địa bàn, chưa thể đảm đương
được nhiệm vụ. Cơ sở mất, lực lượng trong nội ô bị địch đánh tróc khỏi địa bàn,
hoạt động vũ trang của ta trong thị xã giảm hẳn.
Tháng 4/1968, theo chỉ thị của Tỉnh uỷ, An ninh Biên Hòa - U1 triển khai,
học tập Nghị quyết Hội nghị Trung ương Cục lần thứ VI (mở rộng) và Chỉ thị
không số ngày 3/3/1968 của Thường vụ Trung ương Cục về công tác tổ chức cán bộ, yêu cầu cấp uỷ và
Ban An ninh các tỉnh, Phân khu phải nhanh chóng củng cố bộ máy An ninh, chú ý
lực lượng Trinh sát vũ trang, An ninh bí mật, Điệp báo. Sau học tập, An ninh tỉnh Biên Hòa
- U1 quyết định củng cố tổ chức một lần nữa để phục vụ quyết tâm chiến lược của
Đảng. Các cơ sở hợp pháp trong nội đô và ven đô được rà soát lại, những cơ sở
nào đã ra hoạt động công khai hoặc có nguy cơ bị lộ được rút ra ngoài. Một số
cán bộ ở ngoài cứ, có điều kiện, được đưa vào sống hợp pháp trong nội đô và ven
đô nhằm sắp xếp lại các đường dây giao liên, tổ chức, giao nhiệm vụ phù hợp với
địa bàn, khả năng của từng cơ sở, từng địa bàn, để phát huy tối đa khả năng
địch tình, phục vụ cho lực lượng công khai đánh địch.
Sau Tổng công kích,
tổng khởi nghĩa Xuân Mậu Thân, dựa vào một số cơ sở của lực lượng An ninh trong
nội đô chưa bị lộ, Ban lãnh đạo An ninh Biên Hòa - U1 hạ quyết tâm bằng mọi
cách giữ vững liên lạc với cơ sở bên trong, đồng thời tạo thế hợp pháp, tiếp
tục đưa cán bộ bên ngoài vào để củng cố địa bàn, chuẩn bị mọi điều kiện cần
thiết, sẵn sàng phục vụ các chủ trương của Đảng. Cũng từ đây, một số đồng chí
lãnh đạo và cán bộ Ban An ninh thị xã Biên Hòa như đồng chí Lê Quốc Bình (Bảy Bình), Huỳnh Tấn Minh (Tư Minh), Nguyễn Quang Tường (Tư Tường)… lần lượt vào sống hợp pháp
trong nội đô, phối hợp lực lượng triển khai áp sát địa bàn, nắm tình hình địch,
phục vụ đánh địch.
Thi hành Chỉ thị của
Thường vụ Trung ương Cục, Tỉnh ủy đã chỉ đạo An ninh Biên Hòa - U1 khẩn trương
củng cố lại đội ngũ, trọng tâm là lực lượng Trinh sát vũ trang, Trinh sát chính
trị, An ninh bí mật và lực lượng An ninh xã, ấp. Được sự giúp đỡ của các cấp
uỷ, đến cuối tháng 4/1968, An ninh Biên Hòa - U1 phát triển, xây dựng được nhiều
cơ sở trong nội đô thị xã, phong trào cách mạng dần dần được phục hồi và có
những bước phát triển mới đi vào chiều sâu, cùng quân và dân tỉnh toàn tỉnh,
lực lượng An ninh Biên Hòa - U1 đã xốc lại đội ngũ, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ
mới.
Tổng công kích, tổng
khởi nghĩa Xuân Mậu Thân của quân dân Biên Hòa - U1 đã giành được những thắng
lợi nhất định nhưng quân dân toàn tỉnh cũng phải gánh chịu những hy sinh, mất
mát không nhỏ. Đó chính là những bài học xương máu, đắt giá để lực lượng cách
mạng nói chung và lực lượng An ninh Biên Hòa - U1 rút ra những bài học kinh
nghiệm quí báu, trưởng thành và lớn mạnh hơn, sẵn sàng đối mặt với kẻ thù ở
những trận chiến lớn hơn, quyết tâm chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù, giành
lại độc lập tự do cho dân tộc.
NCLS-PV11
Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Cục và Quân uỷ miền
ngày 5/2/1968 (họp tối 4/2/1968) về quân sự đối với khu trọng điểm, VKĐTT tập
29, trang 593 - 594.
Nghị quyết
của Thường vụ Trung ương Cục và Quân uỷ miền ngày 5/2/1968 (họp tối 4/2/1968)
về quân sự đối với khu trọng điểm, VKĐTT tập 29, trang 596 - 597.
Nghị quyết
Hội nghị Trung ương Cục (mở rộng) lần thứ
VI. Số 01/NQNT, tháng 3/1968. VKĐTT, sđd, tập 29, trang 603 - 604.
Chỉ thị
không số ngày 3/3/1968 về việc tăng cường công tác phòng gian bảo mật, đẩy mạnh
truy kích các cơ sở mật của công an, tình báo địch, bảo vệ nội bộ ta, bảo vệ
vùng giải phóng của Thường vụ Năm Trường, tập những chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Cục
về công tác an ninh ở miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước do Viện Lịch sử
CAND ấn hành năm 1994.
NCLS